tiểu sử thượng toạ thích nhật từ

Thượng tọa Thích Nhật Từ là một Tam tạng pháp sư đương đại, một nhà cải cách Phật giáo hiện đại, chủ trương nhập thế. Ngài còn là một diễn giả, nhà hoằng pháp, dịch giả kinh điển, tác gia, nhà thơ, nhà tư vấn, người chữa bệnh ma nhập (còn gọi là bệnh tâm thần đa nhân cách), và là một nhà hoạt động xã hội năng động.

Ghi nhận những đóng góp đặc biệt của Sư, vào tháng 12 năm 2010, Thượng tọa Thích Nhật Từ đã được Giáo hội Phật giáo Việt Nam tấn phong lên hàng giáo phẩm Thượng tọa sớm hơn 3 năm so với quy định của Hiến chương Giáo hội Phật giáo Việt Nam (45 tuổi đời, 25 tuổi hạ).

tiểu sử thượng toạ thích nhật từ
Tiểu Sử Thượng Tọa Thích Nhật Từ

Tiểu Sử Thượng Tọa Thích Nhật Từ

Thượng tọa Thích Nhật Từ là một Tam tạng pháp sư đương đại, một nhà cải cách Phật giáo hiện đại, người chủ trương nhập thế, đồng thời là một diễn giả, nhà hoằng pháp, dịch giả kinh điển, tác giả, nhà thơ, nhà tư vấn, người chữa bệnh ma nhập (còn gọi là bệnh tâm thần đa nhân cách), và một nhà hoạt động xã hội đầy nhiệt huyết.

Ghi nhận những đóng góp đặc biệt của Sư, vào tháng 12 năm 2010, Sư Thích Nhật Từ đã chính thức được Giáo hội Phật giáo Việt Nam tấn phong lên hàng giáo phẩm Thượng tọa, sớm hơn 3 năm so với quy định của Hiến chương Giáo hội Phật giáo Việt Nam (45 tuổi đời, 25 tuổi hạ).

Sư sinh năm 1969 tại Sài Gòn, xuất gia với Hòa thượng Thích Thiện Huệ tại chùa Giác Ngộ năm 1984 và thọ giới tỳ kheo năm 1988. Thượng tọa đã trụ trì tại chùa Giác Ngộ từ năm 1992. Sư du học tại Ấn Độ năm 1994 và tốt nghiệp tiến sĩ triết học năm 2001. Sư là người sáng lập “Hội Ấn Tống Đạo Phật Ngày Nay” và “Hội Từ Thiện Đạo Phật Ngày Nay.” Ngoài ra, Sư cũng là tác giả và dịch giả của hơn 60 cuốn sách về Phật giáo, biên soạn nhiều nghi thức tụng niệm thông dụng cho Phật tử tại gia, biên tập và xuất bản hơn 200 tác phẩm Phật học, và chủ nhiệm Đại tạng Kinh Việt Nam (Âm thanh). Hiện nay, Sư là trụ trì tại chùa Giác Ngộ (TP.HCM và Vĩnh Long), chùa Vô Ưu (Thủ Đức), và chùa Tượng Sơn (Hà Tĩnh).

Pháp Môn Và Tôn Chỉ Thượng Tọa Thích Nhật Từ

Trong hàng trăm bài pháp thoại, Sư Thích Nhật Từ kêu gọi Tăng Ni và Phật tử quay trở về với đức Phật nguyên thủy, thực hành và truyền bá “Tứ Thánh Đế” (nhận diện khổ đau, tìm hiểu nguyên nhân, trải nghiệm Niết-bàn và thực hành Bát Chánh Đạo), thay vì tiếp tục bị ảnh hưởng bởi phương pháp Phật học của Trung Quốc theo kiểu tổ sư. Tứ Thánh Đế là pháp môn độc đáo, một đóng góp vô giá của đức Phật cho lịch sử tư tưởng tôn giáo thế giới.

Theo Sư Thích Nhật Từ, không có 84.000 pháp môn như Trung Quốc đã khẳng định. Chỉ có Tứ Thánh Đế là pháp môn chính. Các pháp môn của Trung Quốc chỉ nhấn mạnh vào một số kinh điển, trong khi bỏ qua các bài kinh khác và phương diện tu tập khác, vì vậy không đầy đủ và khó có thể giải quyết dứt điểm nỗi khổ. Theo Sư, các pháp môn của Trung Quốc, Nhật Bản và Tây Tạng chỉ là phần ứng dụng của chánh niệm và chánh định trong Bát Chánh Đạo (6 yếu tố còn lại là chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn), do đó không có pháp môn nào của các tổ sư có thể toàn diện và hiệu quả hơn Tứ Thánh Đế.

Xem Thêm »  Lịch Sử Và Kiến Trúc Tu Viện Minh Đạo

Ngoài ra, Sư Thích Nhật Từ còn kêu gọi Tăng Ni Phật tử Việt Nam quay về, bảo tồn và phát huy nền văn hóa Phật giáo Việt Nam cho cộng đồng Việt Nam; không lệ thuộc vào phương pháp Phật học, tu tập, kiến trúc, văn hóa, nghệ thuật của Trung Quốc, vốn đã ảnh hưởng sâu rộng tại Việt Nam trong suốt 2000 năm qua. Sư kêu gọi thuần Việt hóa các nghi thức tụng niệm, câu đối, và bảng hiệu chùa. Theo Sư, tại Việt Nam, tất cả nên sử dụng tiếng Việt để giới thiệu nền minh triết của đức Phật đến với người Việt Nam. Nhập khẩu nguyên xi phương pháp Phật học của Trung Quốc đã làm mất đi tinh thần sáng tạo và đóng góp của Phật giáo Việt Nam.

Về Giáo Dục

Giáo dục Phật giáo đã luôn là một trong những trọng tâm của Thượng tọa Thích Nhật Từ. Mặc dù lớn lên trong giai đoạn nhiều khó khăn của đất nước, với các trường Phật học bị đóng cửa, Sư may mắn được cơ hội học tập với các bậc cao tăng Phật giáo lỗi lạc trong thế kỷ 20, như Đại lão Hòa thượng Thích Minh Châu, Hòa thượng Thích Thiện Siêu, Hòa thượng Thích Huệ Hưng, và nhiều vị khác. Nhờ đó, từ khi còn làm sa-di, Sư đã tinh thông các kinh, luật, luận của Phật giáo Nguyên Thủy và Đại Thừa.

Sau khi tốt nghiệp đại học, Sư tiếp tục theo học cao học triết học tại Ấn Độ và Tiến sĩ triết học, trở thành một học giả Phật giáo uyên bác. Từ năm 2006, Sư đảm nhận vị trí Trưởng Khoa Triết học Phật giáo tại Học viện Phật giáo Việt Nam tại TP.HCM, đồng thời cũng là Phó Viện trưởng của Học viện này. Sư còn là thành viên Ban biên tập Đại Tạng Kinh Việt Nam và Giám đốc Hội Đạo Phật Ngày Nay.

Với kiến thức sâu rộng về Phật học và triết học, Sư đã tích cực giảng dạy, hoằng pháp tại nhiều trường Phật học, lớp Cao cấp Giảng sư, và cũng như tại các chùa trên cả nước. Sư cũng thường xuyên tham gia và thuyết trình tại các hội thảo Phật giáo trong nước và quốc tế, góp phần tích cực vào việc trao truyền và phát triển Phật học trên toàn cầu.

Sự đóng góp to lớn của Thượng tọa Thích Nhật Từ trong lĩnh vực giáo dục Phật giáo đã được ghi nhận bằng việc Trường Đại học Mahamakut, Thái Lan trao tặng Bằng Tiến sĩ Danh dự về Tôn giáo học vào năm 2010, khi Sư mới ở tuổi 40, trở thành người trẻ nhất trong cộng đồng Phật giáo Việt Nam được trao danh hiệu này.

Xem Thêm »  Tiểu Sử Hoà Thượng Thích Giác Khang

Về Tuyền Bá Phật Pháp

Nhằm truyền bá Phật pháp một cách hiệu quả trong thời đại công nghệ số, vào ngày 22-2-2000, đang trong quá trình nghiên cứu sinh tiến sĩ triết học tại Ấn Độ, Sư đã thiết kế và chủ biên trang web Đạo Phật Ngày Nay (www.daophatngaynay.com) – một trong những trang web Phật giáo sớm nhất tại Việt Nam. Trang web này nhanh chóng trở thành nơi chia sẻ và truyền thông về Phật học của cộng đồng người Việt trên toàn thế giới.

Vào năm 2003, Sư làm chủ nhiệm và sản xuất chương trình âm thanh hóa Đại Tạng Kinh Việt Nam dưới dạng MP3 và Sách nói Phật giáo. Đây là ấn bản âm thanh đầu tiên về Đại tạng Kinh trên toàn cầu, mở ra một phương trời mới cho việc học Phật đối với những người yêu thích tiếng Việt và triết lý Phật giáo.

Để giúp giới trẻ và trí thức hiểu đạo Phật một cách sâu sắc, Sư còn là tổng biên tập và xuất bản Tủ sách Đạo Phật Ngày Nay (trên 200 quyển) cùng với hơn 100 CD, VCD, DVD về tân nhạc, cổ nhạc và thơ Phật giáo. Ngoài ra, Sư còn là người khởi xướng làm lịch và thiệp chú tiểu đầu tiên tại Việt Nam. Sư cũng là tác giả, soạn giả, dịch giả của nhiều tác phẩm Phật học và gần trăm bài pháp thoại đa chuyên đề.

Về Hoạt Động Văn Hóa và Từ Thiện

Từ năm 2002 đến 2007, Sư đã thành lập Câu lạc bộ Văn nghệ Phật giáo, tập hợp các nghệ sĩ tên tuổi trong nước để sáng tác và biểu diễn các tác phẩm âm nhạc, kịch bản Phật giáo. Sư cũng là nhà biên tập và xuất bản hơn 100 CD, VCD, DVD về tân nhạc, cổ nhạc và tiếng thơ Phật giáo, góp phần làm phong phú dòng nhạc nhập thế của Phật giáo Việt Nam.

Từ vai trò Thư ký Ban Văn hóa Thành hội Phật giáo TP.HCM đến Trưởng Ban Văn hóa GHPGVN TP.HCM, Sư đã nỗ lực thực hiện nhiều chương trình văn nghệ Phật giáo chuyên nghiệp và đặc sắc tại các trung tâm văn hóa lớn. Sư cũng đã tổ chức nhiều triển lãm văn hóa, mỹ thuật Phật giáo như tranh ảnh, thư pháp, hội họa, cổ vật Phật giáo.

Bên cạnh hoạt động văn hóa, Sư còn là một nhà công tác xã hội, tích cực tham gia các hoạt động từ thiện. Sư đã sáng lập Quỹ từ thiện Đạo Phật Ngày Nay, giúp mổ cườm cho hàng trăm bệnh nhân mỗi năm, tặng quà cho các cơ sở bảo trợ xã hội và hỗ trợ các nạn nhân của thiên tai. Sư cũng thuyết giảng và hướng dẫn thiền cho hàng nghìn phạm nhân, giúp họ vượt qua mặc cảm tội lỗi.

Nhờ những đóng góp đáng kể này, Sư đã trở thành một trong những người tiên phong trong việc phát triển văn hóa và hoạt động từ thiện Phật giáo tại Việt Nam.

Xem Thêm »  Nên Chép Kinh phật gì

Các Vai Trò Đảm Trách Của Thầy

Trong suốt hành trình tu học và phục vụ Phật giáo, vị Thầy đã đảm nhận nhiều vai trò quan trọng. Từ 1984 đến 1991, Ngài đã có dịp được học Phật dưới sự hướng dẫn của các vị cao tăng danh tiếng như HT. Thích Huệ Hưng, HT. Thích Huệ Đăng, HT. Thích Từ Thông và nhiều vị khác. Trong giai đoạn 1992-1994, Ngài tiếp tục có cơ hội được học Phật với các vị đại lão như HT. Thích Minh Châu, HT. Thích Thiện Siêu và HT. Thích Trí Quảng.

Trong những năm 1991-1994, Ngài đảm nhiệm vai trò thành viên biên tập Từ điển Phật học Huệ Quang. Từ 1992-1994, Ngài trụ trì Chùa Giác Ngộ. Những năm 1994-2001, Ngài có dịp du học tại Ấn Độ để chuyên sâu kiến thức Phật pháp. Từ 2002-2007, Ngài đảm nhiệm các vai trò như Phó thư ký Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam, Phó Ban Phật giáo quốc tế Trung ương GHPGVN, Ủy viên Ban Trị sự và Thư ký Ban văn hóa Thành hội Phật giáo TP.HCM. Trong giai đoạn 2002-2006, Ngài là Chủ nhiệm Câu lạc bộ văn nghệ Phật giáo.

Các năm 2005-2007, Ngài tham gia Ủy ban tổ chức quốc tế và Ban thư ký quốc tế của các đại lễ Phật đản Liên Hợp Quốc tổ chức tại Bangkok và Việt Nam. Từ 2007-2013, Ngài là thành viên Biên soạn Bộ Kinh Điển Phật giáo chung (phần Đại thừa) của Ủy ban tổ chức quốc tế của đại lễ Phật đản Liên Hợp Quốc (ICUNDV). Giai đoạn 2007-2012, Ngài kiêm nhiệm các vị trí như Phó viện trưởng Học viện Phật giáo Việt Nam tại TP.HCM, Phó Ban Phật giáo quốc tế GHPGVN, Ủy viên Ban Trị sự Thành hội Phật giáo TP.HCM, Phó Ban – Chánh thư ký Ban Hoằng pháp và Thường trực Ban tư vấn Trung tâm kỷ lục Việt Nam.

Trong 5 năm kế tiếp (2012-2017), Ngài đảm nhiệm nhiều vai trò quan trọng như Ủy viên Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Phó Viện trưởng – Tổng thư ký Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam, Phó viện trưởng Học viện Phật giáo Việt Nam tại TP.HCM, Phó Ban Hoằng Pháp Trung Ương GHPGVN, Phó Ban Giáo dục Tăng Ni Trung ương GHPGVN, Phó Ban Phật giáo quốc tế Trung ương GHPGVN, Trưởng Ban Văn hóa Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam TP.HCM, Phó chủ tịch Liên minh thế giới về giao lưu văn hóa Phật giáo, Thành viên sáng lập Liên minh Phật giáo toàn cầu, Thường trực Ban tư vấn Trung tâm kỷ lục Việt Nam, Phó tổng thư ký Hội đồng Đại Tạng Kinh Việt Nam, Trưởng Khoa Triết học Học viện Phật giáo Việt Nam tại TP.HCM, Chủ biên Tạp chí Đạo Phật Ngày Nay, Thư ký và Trị sự Tạp chí Thế giới Phật giáo. Trong suốt hành trình, Ngài cũng đảm nhiệm trụ trì tại các chùa như Chùa Giác Ngộ, Chùa Vô Ưu và Chùa Tượng Sơn.

Kết Luân

Qua các vai trò được đảm nhận mà Tu Tại Gia đã nêu trên, có thể thấy Ngài là một vị Tăng sĩ có nhiều đóng góp to lớn cho sự nghiệp hoằng pháp, nghiên cứu Phật học và phát triển văn hóa Phật giáo Việt Nam.

Proudly powered by WordPress | Theme: Bake Blog by Crimson Themes.